Quê tôi ở một tỉnh nhỏ Tây Tạng tên là Amdo, nơi mà người dân nổi tiếng là có tính tình hay cáu kính-đến độ mỗi khi có một người Tây Tạng nào nổi nóng thì người ấy thường bị gán cho là dân gốc Amdo! Tuy nhiên nếu mang tánh khi hôm này của tôi để so sánh với lúc tôi còn mười lăm tuổi, thì quả thật khác biệt rất nhiều. Ngày nay, việc cảm thấy bực dọc với tôi quả là chuyện hết sức hiếm hoi, và nếu như việc ấy có xảy ra đi nữa thì cũng chỉ thoáng qua mà hôi. Sự tuyệt vời này đã giúp tôi luôn luôn hân hoan trong cuộc sống, và chẳng qua đó cũng là nhờ tôi biết tu học và luyện tập.
Trong kiếp sống này, tôi đã phải rời bỏ quê hương và còn sống được đến ngày hôm nay cũng đều hoàn toàn nhờ vào lòng nhân từ của kẻ khác. Tôi đã mất mẹ, và hầu hết các vị thầy và các vị giám hộ của tôi cũng đã qua đời. Dĩ nhiên là tôi rất đau buồn mỗi khi nghĩ đến những thảm trạng ấy. Tuy vậy, những nỗi đau buồn đó không làm cho tôi điên đảo, vì dù cho những gương mặt thân yêu ngày xưa không còn nữa, thì những gương mặt mới lại hiện đến với tôi. Nhờ thế mà tôi vẫn sống hạnh phúc và luôn giữ được tâm thức an bình. Theo tôi, một trong những khả năng kỳ diệu của con người là biết đặt mọi thử thách trong một bối cảnh bao quát hơn và sự kỳ diệu ấy bắt nguồn từ lòng từ bi và tình yêu thương.
Bản chất tự nhiên của con người
Một số bạn bè đã nói với tôi rằng họ biết rõ những phẩm tính của
tình thương và lòng từ bi, nhưng nếu phải đem ra ứng dụng vào thực tế thì quả thật họ không thể nào thực hiện được. Đối với họ, thế giới của chúng ta không phải là nơi mà những phẩm tính tuyệt vời ấy có thể đem lại bất cứ một ảnh hưởng hay một sức mạnh nào; sự nóng giận và hận thù đã quá ăn sâu vào lòng chúng ta từ lâu và sẽ còn khống chế nhân loại cho đến muôn đời.
Tôi không chia sẻ với họ quan điểm ấy. Chúng ta đây là những con người, và giống người của chúng ta hiện hữu trong hình dạng tương tự như thế này đã được khoảng chừng hơn một trăm nghìn năm. Tôi nghĩ rằng nếu như tâm thức của chúng t trừ trước đên nay từng bị khống chế bởi nóng giân, và hận thù, thì dân số thế giới lẽ ra phải giảm xuống mới đúng. Nhưng thực sự thì đâu phải thế: dù chiến tranh triền miên, nhưng hành tinh này chưa bao giờ lại đông đảo như vậy. Theo tôi, sự kiến ấy chứng minh cho thấy tuy nóng giận và hung bạo lúc nào cũng xảy ra trên thế giới, nhưng tình thương và lòng từ bi vẫn luôn luôn trội hơn nhiều. Nếu các cơ quan “truyền thông” thường xuyên đề cập tới những tin tức không hay, kể cả việc liên tục phơi bày thảm trạng, thì đó chẳng qua cũng vì các hành vi từ bi đã trở thành quá tự nhiên trong đời sống thường nhật khiến người ta không còn chú ý đến nữa.
Chỉ cần quan sát bản chất con người trên một khía cạnh thật sơ đẳng thì ta cũng sẽ nhận thấy bản chất đó mang một cá tính hiền hòa nhiều hơn là hung hãn. Hãy lấy thí dụ trường hợp của súc vật: những con thú hiền lành có cơ thể thích nghi với bản tính hiền lành, trong khi cơ thể của thú săn mồi lại khác hẳn, phù hợp với bản chất săn mồi của chúng. Con nai và con hổ có hình thù thật khác nhau. Khi đem so sánh cấu tạo của cơ thể của ta và của chúng thì sẽ thấy ta giống con nai hay con thở hơn là giống con hổ. Có phải là răng của ta tương tự với răng của con thỏ hay chăng? Chắc chắn là ta không có răng nhọn răng nanh của con hổ. Kể cả móng tay và móng chân cũng thế. Tôi không giương móng tay ra để gây ra thương tích cho một con chuột. Quả thật, nhờ vào trí thông minh mà con người biết phát minh và sử dụng các loại dụng cụ và tìm ra nhiều phương cách để nâng cao sự sống, tuy nhiên về mặt cấu tạo cơ thể thì đúng là hơn là con người phải thuộc vào loại sinh vật hiền lành.
Thật vậy, chúng ta là những sinh vật có lối sống xã hội. Thiếu tình thân ái, thiếu nụ cười, thì sự sống quả là đáng buồn và nỗi cô đơn là một thứ gì không chịu đựng nổi. Sự tương liên giữa con người là một quy luật tự nhiên- tức là trong chiều hương ta cần phải tùy thuộc vào kẻ khác để sống còn. Trong một số trường hợp, chỉ vì một vấn đề nội tâm nào đó khiến ta nhìn những người chung quanh với đầy hận thù, và trong hoàn cảnh như thế thì ta sẽ không thể nào tìm thấy hạnh phúc và giữa cho tâm thức được an bình. Qua những kinh nghiệm tự nhiên và sơ đẳng, ta cũng có thể nhận thấy rằng sự tương liên-trao đổi tình thương giữa con người với nhau-chính là chìa khóa của hạnh phúc.
Điều này lại càng trở nên rõ rệt hơn khi ta nhìn vào sự sinh hoạt cơ bản của ta. Muốn vượt lên trên mức độ thấp nhất là sự sống còn, ta cũng cần có một mái nhà, thức ăn, bạn đồng hành, thân hữu, một nguồn tài lợi nào đó, và lòng quý mến của kẻ khác,vvv. Ta đâu có thể tự cung phụng lấy một mình những nhu cầu trên đây, mà bắt buộc phải nương nhờ vào kẻ khác. Hãy tưởng tượng một người nào đó muốn sống một mình trong một nơi hẻo lánh không có người ở thì dù cho can trường đến đâu, sức khỏe tốt đến đâu và trình độ học vấn cao cách mấy, người ấy cũng không thể tự hào cho rằng mình đã đạt được hạnh phúc và cuộc sống sẽ được nẩy nở toàn vẹn trong những điều kiện cô đơn như thế. Thí dụ một người sống giữa chốn rừng sâu, trong một vùng bảo tồn thiên nhiên ở Phi Châu chẳng hạn, một nơi chỉ toàn là thú vật, thì với trí thông minh và sự khôn ngoan, người ấy có thể trở thành một ví chúa tể rừng xanh, không hơn không kém. Thử hỏi hắn ta có bạn hữu hay không? Hắn ta có cần đến một tên gọi hay không? Nếu muốn trở thành một vị anh hùng thì hắn có thể thực hiện được không? Nhất định là không, bởi vì chỉ có cách chung sống với nhiều người khác thì mới có thể thực hiện được những gì vừa kể mà thôi.
Tuổi trẻ, sức khỏe và sinh lực đôi khi mang đến cho ta cái cảm giác là mình có thể tự lập, tự cường, hầu như không cần đến bất cứ kẻ nào khác. Nhưng thật ra đấy chỉ là một ảo giác. Ngay ở cái tuổi đẹp nhất trong cuộc đời, ta cũng vẫn cần có bạn hữu, có phải thế không? Lý do thật đơn giản, chỉ vì ta là con người. Cái sự thực đó lại càng rõ rệt hơn nữa khi về già. Đối với tôi đây, nay đã ngoài sau mươi tuổi, và cũng bắt đầu cảm thấy nhiều dấu hiệu của già nua. Tôi thấy trên đầu mình có thêm nhiều tóc bạc, đôi khi lại đau đầu gối, ngồi xuống và đứng lên khó khăn. Với tuổi tác thì ta lại càng lệ thuộc hơn vào sự chăm sóc của kẻ khác: chẳng qua đấy cũng chỉ là phần nào thân phận của tất cả chúng ta.
Trên một bình diện nào đó, ít nhất ta cũng có thể bảo rằng kẻ khác chính là nguồn gốc đem đến hân hoan, hạnh phúc và giàu sang cho ta, tuy nhiên những điều ấy không phải chỉ là nhưng kết quả đơn giản của sự tương liên giữa ta và kẻ khác trong đời sống thường nhật mà thôi. Trên thực tế, tất cả những cảm nhận êm ái mà ta hằng ấp ủ hoặc mong muốn sẽ thực hiện được, đều đòi hỏi phải có hợp tác và sự tương giao với kẻ khác. Đấy là những gì thật hiển nhiên, và đồng thời cũng phù hợp với sự tu tập của một người Phật tử. Vì kể cả những người đã đạt được cấp bậc thạt cao trên đường tu tập cũng vậy, họ cũng vẫn cần đến sự hỗ trợ tương tác lẫn nhau. Thật thế, ở một cấp bậc Giác ngộ hoàn hảo nhất, kể cả lòng từ bi của một vị Phật cũng không đương nhiên có thể hiển lộ được nếu không có sự tương liên với kẻ khác: tức là những kẻ nhận lãnh những hành vi Giác ngộ ấy.
Ngay cả với những người chỉ biết tìm cách thỏa mãn các quyền lợi hoàn toàn ích kỷ- hạnh phúc, tiện nghi và những đòi hỏi cá nhân, mà không hề quan tâm đến sự an vui của khả khác- tôi vẫn nhất định cho rằng họ cũng phải cần đến kẻ khác. Những hành vi tiêu cực cũng không thể có được nếu không có kẻ khác làm đối tượng để thực hiện. Thí dụ như muốn gian lận thì cũng phải có kẻ khác cho ta đánh lừa.
Tất cả những biến cố trong sự sống cũng như tất cả lịch sử đều liên hệ số phận của kẻ khác, và chặt chẽ đến nỗi nếu chỉ có một người đơn chiếc thì đừng nghĩ đến việc thực hiện được bất cứ một điều gì. Vô số những sinh hoạt hàng ngày của con người, dù tích cực hay tiêu cực, đều không thể thực hiện được khi loại kể khác ra ngoài. Nhờ có kẻ khác mà ta mới làm ra đồng tiền, dù cho việc kiếm tiền là mục đích duy nhất của đời ta cũng vậy. Tương tự như vậy, muốn tạo dựng lên một người lừng danh hay muốn hạ bệ một kẻ nào đó, nhưng nếu đơn đọc thì chỉ có một mình ta thì dù có kêu gào thật to cách mấy đi nữa cũng chỉ có tiêng vang dội lại mà thôi.
Sự tương liên là một quy luật tự nhiên và căn bản. Quy luật đó không những áp đặt cho những sinh vật tiến hóa sống thành xã hội như chúng ta mà ngày cả các loài côn trùng, không tôn giáo, không luật pháp, không giáo dục cũng vậy, tất cả đều nằm chung trong quy luật đó và nếu muốn sống còn, chúng phải dựa vào sự nhận biết bẩm sinh giúp chúng biết tìm nhau để hợp tác và liên hệ với nhau. Trên một cấp bậc tinh tế và cao nhất, ngày cả vật chất cũng phụ thuộc vào sự tương liên. Tất cả mọi hiện tượng, từ hành tinh mà chúng ta đang sống cho đến các miền đại dương, những tầng mây trên trời cao, những rừng sâu và hoa lá đang bao quanh ta, tất cả đều hiện hữu bằng cách liên đới với những hệ thống năng lực tinh tế. Thiếu sự tương tác thích nghi và cần thiết, tất cả những thứ vừa kể sẽ tan biến và tự hủy hoại.
Nhu cầu về tình thương
Trong quá trình hiện hữu và qua kinh nghiệm sống của chính ta- dù ý thức hay vô tình- thì có lẽ câu hỏi lớn nhất là: Thế nào là ý nghĩa của sự sống? Tôi cho rằng mục đích của tất cả chúng ta trong sự sống là có được hạnh phúc. Từ lúc chào đời, bất cứ một con người nào cũng tha thiết được hạnh phúc và tìm cách lẩn tránh khổ đau. Không một hoàn cảnh xã hội nào, không một nền giáo dục hay một hệ thống tư tưởng nào có thể làm thay đổi được mục tiêu đó. Tất cả chúng ta đều đi tìm sự thỏa mãn và xu hướng đó phát xuất từ nơi tiềm ẩn sâu kin nhất trong chúng ta. Tôi cũng không hiểu là cả vũ trụ này với vô số những vì sao, hành tinh và thiên hà có hàm chứa một ý nghĩa nào sâu xa hơn nữa hay chăng, nhưng ít ra chúng ta đây, những con người bình dị sinh sống trên địa cầu này, tất cả đều có trọng trách tự tạo ra cho mình một cuộc sống hạnh phúc.
Nhưng chúng ta không phải là những đồ vật được sáng chế, cũng không phải đơn thuần chỉ là vật chất; chúng ta có tình cảm và biết cảm nhận. Nếu như ta chỉ là những thực thể cơ khí, thì các máy móc khác có thể làm nhẹ bớt khổ đau cho ta và làm thỏa mãn các nhu cầu của ta. Tuy nhiên những tiện nghi vật chất không hội đủ điều kiện để thực hiện việc ấy. Không có một vật gì, dù cho đẹp đẽ và quý giá cách mấy đi nữa, đủ sức giúp cho ta tìm thấy cái cảm giác được kẻ khác yêu thương. Chúng ta cần đến một thứ gì đó sâu xa hơn mà tôi gọi đấy là tình yêu mến giữa con người. Nhờ vào tình yêu mến đó, hay từ bi cũng thế, mà tất cả những tiện nghi vật chất mới có thể trở thành những đóng góp mang tính cách xây dựng. Thiếu tình thương giữa con người với nhau, những tiện nghi vật chất đơn thuần không thể nào đem đến thỏa mãn, cũng không thể tạo cho ta một mảy may an bình trong tâm thức, hoặc mang lại bất cứ một thứ hạnh phúc nào khác.
Thực vậy, thiếu tình yêu thương giữa con người thì ngay cả những tiến bộ vật chất cũng có thể biến thành những khó khăn khiến sự sống thêm nặng nề. Nguồn gốc và bản chất của chúng ta chứng minh cho thấy không có một con người nào sinh ra trong cõi đời này mà lại không cần đến tình thương. Ngược lại với chủ trương của một vài trào lưu tư tưởng hiện đại, người ta không thể nào đơn giản hóa con người thành một sinh vật đơn thuần chỉ có vật chất.
Cuối cùng thì chính tình thương và lòng từ bi đã tạo ra những niềm hạnh phúc quan trọng nhất cho con người, điều này cũng thật dễ hiểu vì đấy là nhu cầu sâu kín nhất của tất cả chúng ta. Nếu một cá nhân nào đó, bất kể là có năng khiếu gì và lanh lợi đến đâu, khi đã rơi vào cảnh cô đơn và bị kẻ khác bỏ quên, thì con người ấy cũng không thể sống còn được. Dù có cảm thấy thừa sức và hoàn toàn tự cường trong suốt thời kỳ sung mãn của đời ta, đến khi ốm đau, già nua cũng như trong khi còn non dại, ta cũng vẫn phải nhờ cậy vào kẻ khác. Hãy quán xét cẩn thận xem tình thương và lòng từ bi đã từng giúp đỡ cho ta biết bao trong cuộc sống của chính ta.
Đối với vấn đề sáng tạo và tiến hóa của vũ trụ, dù cho các truyền thống tôn giáo có chủ trương khác nhau, nhưng tất cả chúng ta đều phải công nhận là đã được cha mẹ sinh ra. Nói một cách bao quát hơn, sự tạo tác ra chúng ta không hẳn chỉ là hậu quả của dục tính, vì cha mẹ cũng dự phần quyết định sinh ra con cái. Sự quyết định đó dựa trên tinh thần trách nhiệm và lòng bác ái- tức là bậc cha mẹ chấp nhận bổn phận chăm sóc con cái cho đến lúc biết tự lập. Vì thế ngay từ lúc khởi sự tác tạo ra chúng ta, tình thương yêu giữa cha mẹ đã góp phần trực tiếp vào sự hình thành đó.
Trong những dịp tiếp xúc với các khoa học gia, nhất là những nhà khảo cứu trong các lĩnh vực Thần kinh học, tôi đã hiểu được là ngày nay người ta đã chứng minh cho thấy rằng ngay trong lúc mang thai, tình trạng thần thần của người mẹ- an bình hay dao động- sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với tình trạng thể chất và tinh thần của hài nhi trong bụng. Vì thế người mẹ cần phải giữ tâm thức thật an bình và thanh thản, điều ấy thật quan trọng. Sauk hi sinh, những tuần lễ đầu tiên cũng đóng một vai trò quyết định cho sự nẩy nở của đứa bé. Người ta nói với tôi rằng một trong các yếu tố then chốt giúp cho bộ não đứa bé phát triển một cách lành mạnh và nhanh chóng là sự nâng niu của người mẹ. Nếu trong thời kỳ quyết định ấy mà đứa bé bị hắt hủi hay bỏ quên, không một ai dòm ngó đến nó, thì hậu qủa về tâm lý sẽ rất tai hại.
Tình thương và sự chăm sóc là yếu tố chủ yếu trong suốt tuổi thơ của một con người. Khi đứa bé sống với một người cởi mở và biết yêu thương, tự nhiên nó sẽ cảm thấy hạnh phúc và được che chở. Ngược lại, nếu làm cho nó phải gánh chịu đau đớn, sự sợ hãi sẽ xâm chiếm lấy nó và tạo ra những hậu quả tai hại cho sự nẩy nở. Ngày nay, rất nhiều trẻ con lớn lên trong các gia đình ly tán. Chúng thiếu hẳn tình thương, rồi sau này có thể chúng sẽ không còn biết yêu thương cha mẹ nữa và đồng thời chùng cũng mất hết khả năng yêu thương kẻ khác. Quả thật đấy là điều hết sức đáng buồn.
Khi đứa bé lớn lên và cắp sách đến trường, nó cũng cần phải được thầy cô giáo giúp đỡ. Nếu một người mang trọng trách giáo dục, thì ngoài bổn phận giáo huấn về kiến thức họ còn phải biết ý thức bổn phận dìu dắt đứa bé bước chân vào đời. Làm được như thế thì người ấy mới thực sự là một người đáng tin cậy và kính trọng, bởi vì những gì mà trao cho đứa bé sẽ in đậm trong tâm thức nó và sẽ không bao giờ phai mờ. Trong trường hợp ngược lại, nếu thầy cô không thật sự quan tâm đến tương lai của đứa bé, thì những môn học mà họ giảng dạy sẽ trở thành phụ thuộc và không lưu lại lâu bền trong trí nhờ của đứa bé sau này.
Tương tự như vậy, trong một bệnh viện nếu được một y sĩ tận tình châm sóc thì bệnh nhân sẽ cảm thấy yên tâm. Sự quyết tâm của người y sĩ sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để chăm sóc các bệnh nhân đã là một liều thuốc điều trị rồi, dù trên phương diện chuyên môn, người đó có phải là một vị thầy thuốc giỏi hay không. Ngược lại, nếu một vị y sĩ lạnh lùng, không tỏ lộ một chút tình người nào cả, lúc nào cũng khô khan, hấp tấp hoặc thiếu sốt sắng, thì dù cho vị ấy là một lương y uy tín, chẩn bệnh đúng và chữa trị giỏi đi nữa thì người bệnh vẫn lo âu. Dù sao đi nữa, tình trạng tinh thần của bệnh nhân cũng giữ một vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến kết quả trị liệu.
Ngay trong sự tiếp xúc thường nhật, nếu một người nào đó biết ăn nói nhẹ nhàng, thì cuộc đối thoại sẽ thú vị hơn, dù cho chủ đề chẳng có gì là lý thú. Ngược lại, nếu một người ăn nói lạnh lùng hoặc hung hãn, ta sẽ cảm thấy khó chịu và muốn cho câu chuyện sớm chấm dứt. Trước một sự kiện dù tầm thường hay trước những biến cố thật quan trọng, cảm giác được kẻ khác yêu thương thật cần thiết để mang lại hạnh phcus cho ta.
Gần đay, một nhóm khảo cứu gia Hoa Kỳ cho tôi biết trên quê hương của họ con số người mang bệnh tâm thần rất cao, vào khoảng mười hai phần trăm dân số. Hình như những hội chứng trầm cảm không phải là hậu quả của sự thiết thốn vật chất, mà đúng hơn là những khó khăn khi trao đổi và đón nhận tình yêu thương.
Dù cho không hoàn toàn ý thức đi nữa, ta vẫn nhận thấy nhu cầu về tình thương giữa con người đã nằm sẫn trong gen thuộc thành phần di truyền của chúng ta từ lúc mới sinh ra đời. Tình yêu thương đó có thể phát sinh từ một con vật, và cũng có thể phát sinh từ một con người mà thói thường ta vẫn xem như kẻ thù. Tình thương yêu ấy thu hút một cách tự nhiên tất cả mọi người, từ một đứa bé cho đến những kẻ đã trưởng thành.
Nguồn gốc sâu xa của sự thành công
Chúng ta là những con người, đều có khả năng tìm thấy hạnh phúc và biết yêu thương, nhưng cũng có xu hướng tiềm ẩn có thể biến ta thành một kẻ bất hạnh và nguy hại cho kẻ khác. Những xu hương tiềm ẩn như thế đều hàm chứa trong mỗi con người. Muốn đạt được hạnh phúc, chúng ta cần phải phát huy những khía cạnh tích cực và hữu ích và đồng thời giới hạnh những khía cạnh tiêu cực. Những hành vi tiêu cực chẳng hạn như trộm cắp hay là nói dối, đôi khi có vẻ như tạo được sự thỏa mãnh nhất thời, nhưng trong lâu dài thì sẽ đem đến khổ đau. Các hành vi tích cực, trái lại sẽ luôn mang đến một sức mạnh nội tâm quan trọng. Nhờ vào sức mạnh nội tâm mà ta sẽ bớt sợ hãi và trở nên tự tin hơn; nhờ thế ta mới có thể quan tâm đến kẻ khác một cách dễ dàng hơn, để có thể vượt qua biên giới của tôn giáo, văn hóa hay bất cứ những khó khăn nào khác. Vì thế điều quan trong phải quan sát và phân tích cẩn thận những xu hương sâu kín trong ta, vì nó có thể tạo ra điều thiện và cả điều xấu.
Tôi gọi thái độ trên đây là cách khơi động tình người. Tôi luôn luôn quan tâm chủ trương tìm hiểu những giá trị căn bản nơi mỗi con người, chẳng hạn như lòng từ bi, sự quan tâm đến kẻ khác và sự tự nguyện. Dù theo tôn giáo nào, dù hữu thần hay vô thần, nhưng nếu thiếu những giá trị vừa kể thì ta sẽ không thể nào tìm thầy hạnh phúc được.
Hãy thử phân tích những lợi ích của từ bi và tình yêu thương trong đời sống thường nhật xem sao. Chẳng hạn như, khi mới thức dậy, ta cảm thấy khoan khoái, tinh thần vui vẻ và thỏa mãn, cánh cửa nội tâm sẽ mở rộng giúp ta đưa tay đón lấy một ngày đang hiện ra trước mặt. Trong ngày hôm ấy, nếu có gặp một người mà ta không thích thì ta vẫn đủ sức để nói lên một lời thân thiện với kẻ đó. Tiếp theo đấy, biết đâu ta cũng có thể trò chuyện với họ, tuy rằng trước đây ta vẫn xem họ là một người khó thương, để rồi cả hai bên cùng trao đổi với nhua những quan điểm ích lợi. Khi ta tạo được một bầu không khí tích cực và thân thiện, sự sợ hãi và bất an tự nhiên sẽ biến mất giữa họ và ta. Đó là phương cách khá dễ dàng để có thêm bạn bè và để nhìn thấy những nụ cười mới mẻ đến với ta.
Tuy nhiên nếu trong một ngày nào đó mà ta cảm thấy bực bội và cáu kính thì cánh cửa nội tâm sẽ tự động khép lại trong ta. Với tâm trạng này thì dù cho gặp lại một người bạn thân thiết nhất đi nữa, ta cũng vẫn cảm thấy thiếu thoải mái và căng thẳng. Các thí dụ trên đây cho thấy những thái độ bên trong của ta đã nắm giữ vai trò quyết định ảnh hưởng đến những cảm nhận hàng ngày trong cuộc sống. Để có đủ sức mạnh giúp tạo ra những cảm xúc an vui cho chính bản thân ta, cho gia đình và cả tập thể những người chung quanh, ta cần phải ý thức rằng nguồn gốc sâu xa của sức mạnh đó đã nằm sẵn trong mỗi cá nhân, tức trong mỗi con người chúng ta- đó chính là tình thân ái, lòng từ bi và tình người.
Lòng từ bi không phải chỉ mang đến lợi ích về mặt tâm thức mà còn giúp cho thể xác chúng ta được khỏe mạnh. Theo nền y khoa tân tiến ngày nay, và cũng dựa vào kinh nghiệm của bản thân tôi, sự thăng bằng của tâm thức và sức khỏe luôn luôn đi đôi với nhau. Thật rõ ràng là sự nóng giận và những dao động tâm thức làm cho ta dễ ốm đau, ngược lại khi tâm thức an bình và hướng về những điều tích cực thì thân xác sẽ khó bị bệnh tật hơn. Điều ấy chứng minh cho thấy phần thân xác là nơi tiếp nhận tình người và cả sự an bình xuất phát từ nơi tâm thức.
Đồng thời tôi cũng tin rằng, khi ta chỉ biết nghĩ hoàn toàn riêng đến bản thân mình thì cái nhìn của ta về mọi sự vật chung quanh cũng sẽ trở nên hẹp hòi. Và cũng vì lẽ đó mà những buồn phiền nhỏ nhặt cũng hóa thành trọng đại, tạo ra những cảm giác lo sợ và bất an, như bị tràn ngập bởi mọi thứ bất hạnh. Ngược lại, khi biết nghĩ đến kẻ khác và tìm cách giúp đỡ họ thì sự quán nhận của ta về thực tại sẽ trở nên bao quát hơn. Khi mở rộng tầm nhìn thì những vấn đề cá nhân sẽ mất đi tầm quan trọng, và điều đó sẽ làm thay đổi tất cả.
Khi lo âu cho kẻ khác, sức mạnh nội tâm sẽ tỏa rộng trong ta, dù cho ta đang phải bận đối đầu với những kho khăn hay những vấn đề riêng tư khác. Nhờ vào sức mạnh nội tâm ấy, nỗi buồn phiền của riêng ta sẽ trở nên kém quan trọng và không còn ám ảnh ta nữa. Nếu biết vượt lên trên những vấn đề cá nhân để quan tâm đến kẻ khác, ta sẽ vững vàng hơn về mặt đạo đức, sẽ cảm thấy tin tưởng, can đảm và an bình hơn. Điều đó chứng minh cho thấy cách thức suy tư đã tạo ra ảnh hưởng quan trọng như thế nào.
Khi ta thật sự hành động vì sự an vui của chúng sinh thì quyền lời và những mong ước cá nhân của ta cũng sẽ theo đó mà thành tựu, giống như những sản phẩm phụ thuộc phát sinh một cách tự nhiên. Trong tập sách “Đại luận về con đường đưa đến Giác ngộ, vị Lạt Ma Tông Khách Ba (Tsongkapa), một vị thầy lừng danh thế kỷ XV, đã viết như sau : “Khi một người tu tập biết hành động và suy tư thật mạnh về sự an vui của kẻ khác, họ sẽ nhìn thấy những nguyện vọng của mình tự nhiên được thành tựu, giống như những sản phẩm phụ thuộc sinh ra một cách đương nhiên, không cần đến một cố gắng nào cả”.
Một số quý vị có lẽ đã từng nghe tôi nói đến những điều sau đây, vì tôi vẫn thường nhắc đi nhắc lại điều này, là nếu diễn đạt theo một ý nghĩa nào đó thì người ta có thể nói rằng những người Bồ-tất, tức những vị tu tập Đạo pháp bằng từ bi là những người “Ích kỷ một cách hết sức khôn ngoan”, trong khi đó chung ta lại cư xử giống như những người “ích kỷ một cách vô cùng đần độn”. Nếu chỉ biết nghĩ đến chính mình, bất chấp sự thiệt thòi của kẻ khác thì chúng ta sẽ không tìm được hạnh phúc và sẽ sống trong bất an.
Nhân ái và yêu thương còn có những lợi ích khác nữa, tuy rằng những lợi ích ấy không dễ cho ta nhận thấy ngay. Việc tu tập Phật giáo nhằm vào rất nhiều mục đích, một trong những mục đích ấy là được tái sinh thuận lợi trong kiếp sau. Mục đích này chỉ có thể thực hiện được khi nào ta biết tự giữ gìn không làm hại đến kẻ khác và đồng thời biết mở rộng lòng vị tha và nhân từ. Thật là hiển nhiên, trong số sau giáo pháp Ba la mật là bố thí, trì giới,nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ, người Bồ-tất phải đặt trọng tâm vào sự giúp đỡ và ân cần với những người chung quanh.
Vì thế, yêu thương và hơi ấm trong tim ta là những đức tính sâu kín giúp đem đến thành công trong sự sống và thăng tiến trên đường tu tập để đưa đến mục đích tối hậu là sự Giác ngộ. Vì thế từ bi và yêu thương bao giờ cũng quan trọng, từ lúc ta mới bước chân vào đời, trong giữa cuộc đời hay đến lúc phải nằm xuống. Những đòi hỏi đó và những giá trị đó không giới hạn trong bất cứ một giai đoạn, một địa danh, một xã hội hay một nền văn hóa nhất định nào cả.
Chúng ta chẳng những cần đến từ bi và tình yêu thương giữa con người với nhau để sống, mà những phẩm tính đó còn đem đến cho ta sự thành công trong cuộc sống. Thái độ ích kỷ, không những sẽ gây ra nhiều điều bất hạnh cho kẻ khác mà còn ngăn cản không cho ta tìm thấy hạnh phúc mà ta hằng mong ước. Đã đến lúc ta cần phải suy nghĩ về những điều trên đây và chọn lấy một thái độ thích nghi, có đúng vậy chăng? Dù sao đi nữa, đấy cũng là niềm tin của riêng tôi.
Comments[ 0 ]
Post a Comment