Người Trung quốc xâm chiếm Tây tạng vào năm 1950 Biến cố gay go nhất xảy ra cho tôi là trong những năm tháng khi mà tôi còn đang trong tuổi cắp sách đã phải đứng ra gánh vác trách nhiệm lớn lao. Trong suốt thời kỳ ấu thơ tôi chưa từng phải đối đầu với khó khăn nào đáng kể, thế nhưng trong lúc này lần đầu tiên tôi phải một mình gánh vác trách nhiệm, thật quả hết sức nặng nề cho tôi. Chuyện xảy ra vào năm 1950, lúc ấy tôi vừa mới mười lăm tuổi. Thật ra thì người Trung quốc cũng đã khởi sự thâm nhập vào lãnh thổ Tậy tạng từ trước, thế nhưng vào năm 1950 họ mới ồ ạt xâm chiếm khắp nơi. Riêng tôi thì ngoài việc học hành và tu tập ra tôi không có một kinh nghiệm nào về chính trị cũng như ngoại giao.
Lời kêu gọi Liên Hiệp Quốc của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma "[...] Thế giới chỉ quan tâm đến tình hình Triều tiên, nơi mà toàn thể liên quân quốc tế đang ra sức chống trả các cuộc tấn công. Trong khi đó những biến cố tương tợ đang xảy ra ở nước Tây tạng xa xôi thì không hề có ai thèm chú ý đến [...].
"Sử dụng quân đội và vũ khí chiến tranh để xâm chiếm Tây tạng với mục đích đưa xứ sở đó vào quỹ đạo cộng sản Trung quốc là một sự xâm lăng trắng trợn. Cho đến khi nào mà dân tộc Tây tạng còn bị sáp nhập vào Trung quốc bằng vũ lực, đi ngược với ý chí và không có sự thỏa thuận của dân tộc ấy thì sự xâm lăng Tây tạng hiện nay là một bằng chứng hùng hồn cho thấy kẻ mạnh ức hiếp kẻ yếu. Vì thế chúng tôi kêu gọi các quốc gia trên thế giới can thiệp dưới danh nghĩa của chúng tôi để ngăn chận sự xâm lược của Trung quốc".
Bản tuyên ngôn này được hội đồng bộ trưởng (Kashag) và Quốc hội Tây tạng đồng ký tên. Làm tại Lhassa ngày hai mươi bảy tháng chín năm Canh Dần (tức ngày 7 tháng 11 năm 1950).
Lời kêu gọi trên đây không gây ra một tiếng vang nào.
Vị lãnh đạo không đối thủ của sáu triệu người dân Tây tạng vừa mới mười lăm tuổi
Tình hình ngày càng trở nên tệ hại hơn, đã đến lúc đa số phải đứng về phía vị Đạt-Lai Lạt-Ma. Vì lý do có nhiều chính kiến bất đồng nên chính phủ phải nhờ đến sấm truyền. Vị tiên tri của chùa Nechung khệ nệ dưới sức nặng của chiếc mũ trên đầu và đang trong tình trạng cực kỳ căng thẳng (nhập hồn) tiến đến chỗ tôi ngồi và đặt lên đầu gối tôi một chiếc kata (khăn quàng bằng lụa trắng làm quà hiến dâng), trên chiếc khăn có viết một câu như sau : "Thời đại của nó đã hết". Từ nhiều năm nay, vị tiên tri công khai xem thường chính phủ thế nhưng lại tỏ ra rất cung kính đối với tôi. Lúc bấy giờ tôi mới mười lăm tuổi thế nhưng tôi đã trở thành vị lãnh đạo của sáu triệu dân Tây tạng đang chuẩn bị một cuộc chiến không tránh khỏi được. Tình thế quả thật không có lối thoát, thế nhưng tôi phải làm tất cả những gì có thể làm được trong quyền hạn của tôi để tránh thảm họa có thể xảy ra.
Lời tiên đoán của vị tiền nhiệm của tôi
Vào năm 1933 vị tiền nhiệm của tôi là Thupten Gyatso, tức vị Đạt-Lai Lạt-Ma XIII qua đời và để lại di chúc cho biết chắc chắn và rõ ràng là một ngày nào đó sẽ xảy ra một mối nguy hiểm cộng sản vô cùng khiếp đảm cho xứ sở. Từ lúc ấy Ngài đã hiểu rằng không thể nào chống trả bằng sức mạnh hai nước láng giềng to lớn là Trung quốc và Ấn độ, vì thế Ngài đã kêu gọi hai nước láng giềng nhỏ bé là Nepal và Bouthan cùng hợp tác với Tây tạng thành lập và huấn luyện một quân đội chung. Thật ra cũng phải thú nhận đấy không phải là một cách thực thi chính sách tuyệt đối bất bạo động. Các nước láng giềng làm ngơ trước đề nghị này. Trên phương diện thuần túy chính trị cũng phải công nhận đấy là một biện pháp quá đỗi lo xa. Vi tiền nhiệm của tôi thật bén nhạy và đã cảm thấy những chuyển động sau này của thế giới. Thế nhưng người ta lại không tin vào lời Ngài nói. Các người có quyền hành không thực thi theo lệnh của ngài.
Đơn độc chống lại Trung quốc
Với sự thoả thuận của các vị trách nhiệm trong tăng đoàn và của hội đồng Kashag (hội đồng bộ trường), tôi quyết định đưa một số phái đoàn đại biểu ra ngoại quốc : Hoa kỳ, Anh quốc, Nepal, và cả Trung quốc để cố gắng thương thảo yêu cầu Trung quốc rút quân. Phái đoàn duy nhất đến được nơi dự kiến lại là phái đoàn được gởi đi Trung quốc. Các phái đoàn khác đều bị từ chối không nước nào tiếp rước. Sự thất vọng quả thật chua chát. Có phải là người Mỹ đã thay đổi thái độ đối với chúng tôi hay chăng ? Tôi vẫn còn nhớ lại nỗi lo buồn khi nhận thấy điều ấy : rồi đây người dân Tây tạng phải đơn độc đương đầu với sức mạnh của cộng sản Trung quốc.
Trên đường từ Lhassa đến Bắc Kinh xuất hiện một pho tượng đầu trâu
Người Trung quốc đề nghị với chính phủ Tây tạng hãy gửi sang Trung quốc một vài chức sắc để quan sát và đánh giá tận mắt cuộc sống của người dân trên đất mẹ Trung quốc tươi đẹp và vinh quang đến mức độ nào. Sau đó ít lâu, vào khoảng năm 1954, tôi lại đích thân được mời sang Trung quốc. Biết đâu nhờ dịp này tôi sẽ gặp được Mao Trạch Đông. Nhiều người Tây tạng không tán đồng chuyến đi này của tôi vì họ e sợ có thể tôi sẽ bị giữ luôn ở Trung quốc hoặc tính mạng tôi cũng có thể bị hăm dọa. Riêng tôi thì không hề sợ gì cả. Tôi quyết định lên đường. Đoàn tùy tùng lên đến năm trăm người, trong số này có gia đình tôi, hai vị giám hộ của tôi và cả hội đồng Kashag. Lhassa cách Bắc kinh ba ngàn cây số.
Vào những năm 1954 các phương tiện lưu thông nối liền hai quốc gia chưa có. Trên chặng đường đầu tiên tôi quyết định chọn ngôi chùa Ganden làm trạm dừng chân thứ nhất và tôi vô cùng nôn nóng muốn đến ngay nơi này. Chúng tôi lưu lại đấy vài hôm. Thật không còn nghi ngờ gì cả, trước khi rời ngôi chùa tôi trông thấy pho tượng đầu trâu tượng trưng cho vị thần linh phù trợ xứ Tây tạng có vẻ rất khác lạ không giống như lần đầu tiên trước đây khi tôi trông thấy. Đầu pho tượng gục xuống giống như có vẻ tùng phục, mặt pho tượng quay về hướng Đông và hiện lên sự hung tợn. Sau này trên đường lưu vong người ta kể lại cho tôi nghe trong một ngôi miếu nhỏ thuộc ngôi chùa Ganden có một bức tường bỗng nhiêm rướm máu.
Ngài Pan-chen La-Ma
Tương tợ như trường hợp của các vị Lạt-Ma, các vị Pan-chen Lạt-Ma cũng là các vị tái sinh thuộc các cấp bậc cao. Pan-chen Lạt-Ma là vị lãnh đạo tinh thần chỉ dưới quyền của vị Đạt-Lai Lạ-Ma mà thôi, thế nhưng các vị này trên dòng lịch sử chưa từng bao giờ nắm giữ một quyền hành dân sự nào cả.
Khi đến tỉnh Sian thì vị Pan-chen Lạt-Ma tháp tùng với phái đoàn chúng tôi. Vị này mới mười sáu tuổi và lớn lên trong một hoàn cảnh vô cùng rối rắm. Một hố sâu chia cách hai vị tiền nhiệm trực tiếp của chúng tôi trước đây. Vị tiền nhiệm Pan-chen Lạt-Ma trải qua phần lớn đời mình trong vùng cận biên với Trung quốc do người Trung quốc kiểm soát và vị này đã chết tại đấy. Người Trung quốc tiến cử vị thay thế do chính họ lựa chọn trong vùng, trong khi đó thì có hai ứng viên khác đã được lựa chọn trong phần lãnh thổ Tây tạng. Nhiều cuộc thương thảo đã diễn ra thế nhưng sau cùng thì ứng viên do người Trung quốc lựa chọn được công nhận là vị hóa thân đích thực, lúc đó vừa được mười một hay mười hai tuổi.
Việc giáo dục của vị này hoàn toàn trong tay người Trung quốc, trước hết dưới chế độ Tưởng Giới Thạch, sau đó là chế độ cộng sản. Tất nhiên đấy là một lợi điểm cho người Trung quốc, họ có thể mượn danh nghĩa của vị lãnh đạo tinh thần người Tây tạng để tuyên bố bất cứ gì. Nếu vị này và những người tùy tùng theo về với chính nghĩa Tây tạng từ trước thì thảm họa Tây tạng dù có xảy ra cũng không đến đỗi quá tệ hại đến thế. Tuy nhiên không nên hoàn hoàn toàn đổ lỗi cho vị Pan-chen Lạt-Ma. Vì quá trẻ và thường xuyên chịu sức ép nặng nề của ngoại bang nên vị này không làm gì khác hơn được.
Mao Trạch Đông
Trong chuyến công du đầu tiên của tôi tại Trung quốc, tôi được vị Thủ tướng và phó chủ tịch Cộng hòa Nhân dân Trung quốc là Chu Ân Lai và một vị nữa là Chu Tế (Chu Teh) đón tiếp. Cả hai tỏ ra rất thân thiện. Nếu tôi nhớ không lầm thì hai hay ba hôm sau, lần đầu tiên tôi gặp chủ tịch Mao. Cuộc gặp mặt xảy ra trong một buổi họp công khai. Phía chủ nhân giữ ý tứ quá đỗi cẩn thận. Sự lo âu của họ lây cả sang chúng tôi, khiến chúng tôi cũng hoảng kinh. Riêng chủ tịch Mao thì có vẻ hoàn toàn thoải mái và thư giãn. Ông ta không có vẻ gì là một người đặc biệt thông minh. Thế nhưng khi bắt tay tôi cảm thấy ông ta có một sức thu hút thật mạnh. Chẳng những ông ta là người thân thiện mà còn rất tự nhiên.
Chúng tôi hội kiến với nhau ít nhất mười hai lần. Trước hết phải ghi nhận là trên phương diện thân thể ông ta là người khác thường. Da tuy sậm đen thế nhưng nước da bóng loáng. Hai bàn tay cũng bóng loáng giống như nước da trên người, ngoài ra tôi cũng nhận thấy hai bàn tay có một vẻ đẹp nào đó, ngón cái rất thanh nhã. Ông ta phát biểu bằng những câu ngắn và ăn nói rất chậm. Cử chỉ cũng chậm. Cách ăn mặc tương phản với phong cách của ông ta : quần áo có vẻ mòn nhẵn. Bộ đồng phục cũng tương tợ với quần áo của những người Trung quốc bình thường, chỉ trừ màu sắc là khác. Uy quyền toát ra từ toàn thân của ông và mỗi khi xuất hiện đều làm cho mọi người chung quanh phải kính nể.
Chu Ân Lai và Lưu Thiếu Kỳ
Ngoài Mao ra tôi còn thường xuyên gặp Chu Ân Lai và Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shao Ch'i). Trong khi Lưu tỏ ra rất trầm tĩnh và nghiêm trang thì Chu lại tươi cười, khả ái và có đầu óc hơn, nhất là sự lễ độ của Chu được đẩy đến mức khiến người khác phải lo ngại không còn biết có nên tin vào ông ta hay không. Không có gì thoát khỏi sự chú ý của Chu.
Khrouchtchev, Boulganine và nhà thông thái Nerhu
Vào dịp lễ kỷ niệm năm thứ năm thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung quốc, người ta giới thiệu tôi với Krouchtchev và Boulganine. Hai vị này không gây được một ấn tượng nào đối với tôi. Dầu sao thì hai ông này cũng không thể so sánh với nhà thông thái (pandit) Nerhu đã thân hành đến Bắc kinh khi tôi còn lưu ngụ tại đó. Nhìn từ xa ông ta (Khroustchev) có vẻ khá nhã nhặn, thăm hỏi mọi người rất tự nhiên. Thế nhưng khi tôi bắt tay ông ta thì ông ta sững sờ và bất động. Ông ta không tìm được lời nào để nói và đôi mắt đờ đẫn không hồn. Tôi vô cùng thất vọng vì tôi có ý định hỏi ông ta về thái độ của quốc gia ông đối với Tây tạng như thế nào.
Hội kiến tay đôi với Mao
Trong một buổi hội kiến tay đôi với Mao, ông ta nói với tôi như sau : "Tây tạng là một nước lớn. Quý vị có một lịch sử tuyệt vời. Cách nay đã lâu chính quý vị đã từng xâm chiếm một phần lớn lãnh thổ Trung quốc. Thế nhưng hiện nay quý vị đang trong tình trạng chậm tiến, và chúng tôi muốn giúp quý vị đuổi kịp sự chậm trễ đó". Thật khó tin, thế nhưng hình như ông ta rất thành thực khi nói lên những lời nói ấy. Ý nghĩ về một sự hợp tác với Trung quốc bỗng mang lại sự phấn khởi cho tôi. Càng suy nghĩ đến chế độ Mác-xít, tôi lại càng nhìn thấy nhiều phẩm tính tốt. Đấy là một chế độ nêu cao công lý và sự công bằng đối với tất cả mọi người, một phương thuốc bá bệnh. Khiếm khuyết duy nhất mà tôi thấy là chế độ ấy chỉ biết đến khía cạnh đơn thuần vật chất của sự hiện hữu con người.
Karl Marx và chế độ Mác-xít
Nếu tìm hiểu về cuộc đời của Karl Marx và nguồn gốc làm phát sinh ra chủ nghĩa Mác-xít, thì người ta sẽ thấy rằng Marx đã từng gánh chịu thật nhiều khổ đau trong suốt cuộc đời mình, vì thế lúc nào ông cũng muốn chứng minh cho mọi người thấy mình là một nhà vô địch quyết chiến đấu để lật đổ giai cấp tư sản. Ông chỉ nhìn thấy thế giới này dưới khía cạnh của sự kình chống. Dựa trên bản chất của mô hình quá sơ đẳng đó, toàn thể phong trào cộng sản đã bị sụp đổ. Trái lại nếu biết xây dựng theo mô hình của ngàn xưa, dựa trên nền tảng của từ bi và lòng nhân ái thì có lẽ mọi sự đã phải khác hơn nhiều.
Du hành xuyên qua Trung quốc cộng sản
Vào mùa đông năm 1954, tôi và đoàn tùy tùng du hành xuyên qua Trung quốc để chứng kiến tận mắt những tiến bộ tuyệt vời trên phương diện vật chất và kỹ nghệ. Tôi rất khâm phục những gì người cộng sản đã thực hiện được, nhất là trong lãnh vực kỹ nghệ nặng. Tôi ước mong xứ sở tôi cũng thực hiện được những tiến bộ như thế.
Lời khuyên của Mao
Cuộc hội kiến với Mao vào mùa xuân năm 1955 và cũng rất có thể đấy là lần hội kiến cuối cùng. Mao ngỏ lời khuyên tôi nên cai trị như thế nào, phải tổ chức các buổi hội họp như thế nào, làm thế nào để thăm dò được sự suy nghĩ của người khác, làm sao giải quyết những vấn đề khó khăn... Sau đó ông ta đến bên cạnh tôi và nói với tôi như sau : "Thái độ của ông rất tốt, ông có biết không. Tôn giáo là liều thuốc độc. Trước nhất là các nhà sư và các nữ tu sống độc thân, chủ trương đó của tôn giáo không thể giúp gia tăng thêm dân số. Ngoài chuyện đó ra tôn giáo còn kiềm hãm sự tiến bộ. Hai nạn nhân trước mắt ông đấy : đó là Tây tạng và Mông cổ". Lúc đó mặt tôi hình như nóng bừng lên và bất chợt tôi cảm thấy vô cùng sợ hãi.
Trở về Lhassa
Trở về Lhassa vào tháng sáu năm 1955, tôi được hàng ngàn người đón rước giống như trước kia. Sự hiện diện của tôi mang lại phấn khởi cho dân chúng và riêng tôi cũng cảm thấy lạc quan hơn khi nghĩ đến Mao đã công khai bày tỏ sự tin tưởng đối với tôi, điều đó đã gián tiếp nâng vị thế của tôi cao hơn một chút trước cái nhìn của những người đại diện Trung quốc tại địa phương.
Thiền định tại cung mùa hè
Thật thế tôi không đủ sức bày tỏ tất cả niềm hân hoan của tôi khi được trở lại cung Norbulingka. Phía bên ngoài và sát bên cạnh tường thành là trại quân Trung quốc, ngày đêm họ canh chừng chúng tôi, thế nhưng bên trong vòng thành khung cảnh vẫn an bình và tráng lệ. Chúng tôi vẫn tiếp tục thực hành nghi lễ và gần như không bị quấy rầy gì cả.
Những lời tiên đoán của vị tiên tri Nechung
Vào đầu năm 1956 và vào dịp lễ Lossar (ngày Tết), tôi gặp vị tiên tri Nechung, đây là cuộc gặp gỡ vô cùng quan trọng. Vị này tuyên bố như sau : "Viên ngọc báu giúp thực hiện được mọi ước vọng (một trong các cách gọi vị Đạt-Lai Lạt-Ma của người dân Tây tạng) sẽ rạng ngời tại Tây phương". Ngay trong lúc đó tôi chỉ hiểu rằng phải vượt sang Ấn độ, thế nhưng về sau này tôi mới hiểu lời tiên tri ấy hàm chứa những ý nghĩa sâu xa hơn.
Công cuộc kháng chiến của người Tây tạng
Một biến cố xảy ra vào mùa hè khiến tôi rất đau buồn, từ trước đến nay tôi chưa bao giờ đau buồn đến thế. Liên quân chiến đấu dành độc lập vừa gặt hái được vài kết quả đáng kể : phá được một vài đoạn cầu đường ngăn chận bớt sức tiến quân của các đạo quân Trung quốc. Thế nhưng đúng như sư tiên đoán của tôi : quân đội Trung quốc trả đủa một cách thật khủng khiếp. Thế nhưng tôi vẫn không ngờ được là họ lại dùng cả phi cơ oanh tạc ngôi chùa Lithang ở tỉnh Kham. Hay được tin này tôi bật khóc. Tôi không ngờ con người lại có thể độc ác đến thế. Sau trận oanh tạc đó họ tra tấn và tìm giết vợ con các chiến binh kháng chiến, các nhà sư và nữ tu sĩ thì bị tra tấn thật dã man chưa từng thấy.
Mao chính thật là kẻ đã hủy diệt Đạo Pháp
Trong thuở thiếu thời và vào lúc tuổi đời còn trẻ thế mà tôi đã phải chứng kiến những cảnh tượng như thế, thật vậy đấy là các biện pháp đàn áp quá sức tàn bạo - đốt chùa, tàn phá các công trình nghệ thuật, đóng đinh, xẻ thịt, chặt chân tay, mổ bụng, cắt lưỡi - tất cả những thứ ấy không còn cho phép một sự hợp tác nào có thể hình thành được nữa. Những cảnh ghê rợn đó đã xảy ra trên quê hương tôi và tôi tin chắc rằng Mao là một người "hủy diệt Đạo Pháp".
Khó khăn của một vị lãnh đạo tâm linh và tạm thời (tức thế tục) trong thời kỳ chiến tranh
Tình cảnh trở nên tuyệt vọng. Tất cả mọi cố gắng tìm kiếm một giải pháp hòa bình không mang lại một kết quả nào. Chúng tôi rơi vào vòng lẩn quẩn giữa sự trừng phạt độc đoán và sự phẫn uất của dân chúng. Sự thối chí xâm chiếm lòng tôi. Từ nghìn xưa bổn phận của vị Đạt-Lai Lạt-Ma là mang lại hạnh phúc cho đất nước Tây tạng, ngày nay thật không thể nào kham nổi trách nhiệm đó. Trong vị thế phải giữ hai vai trò, tức vừa là vi lãnh đạo tinh thần vừa là người cai trị tạm thời, tôi phải chận đứng mọi hình thức bạo động trong dân chúng, thế nhưng người Trung quốc trong khi đó lại tìm đủ mọi cách để ly gián tôi với dân chúng. Ví như người dân Tây tạng có đánh mất lòng tin nơi vị lãnh đạo chính trị của mình đi nữa, thì họ cũng không được phép đánh mất lòng tin đối với vị lãnh đạo tinh thần. Tôi có thể ủy nhiệm trách vụ chính trị cho người khác kể cả việc từ chức, thế nhưng một vị Đạt-Lai Lạt-Ma không bao giờ từ bỏ uy quyền lãnh đạo tâm linh ; thật ra thì tôi cũng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện ấy.
Chính trong lúc cực kỳ tuyệt vọng tôi lại nhận được giấy mời sang Ấn độ dự lễ Bouddha Jayanti (tức lễ Phật đản) đánh dấu hai ngàn năm trăm ngày sinh của Đấng Thế Tôn.
Du hành Ấn độ
Vì các nhu cầu chính trị và tôn giáo tôi nhất quyết phải du hành sang Ấn với bất cứ giá nào. Chẳng phải nước Ấn là quê hương của Đấng sáng lập ra Phật giáo, nguồn gốc mang lại trí tuệ cho chúng ta hay sao ? Dù mang nhiều khác biệt thế nhưng Tây tạng cũng không khác gì người con của nền văn minh Ấn độ. Trên phương diện chính trị thì đấy cũng là một dịp may cho tôi rút lui, ít nhất cũng được một thời gian ngắn nào đó, ra khỏi sự bang giao vô bổ và những cuộc bàn thảo vô tích sự với người Trung quốc. Ngoài ra tôi cũng hy vọng là nhân dịp này tôi có thể tìm đưọc sự cố vấn của Nerhu và của các nhà lãnh đạo dân chủ, họ đều là đệ tử của Mahatma Gandhi.
Trước đây xứ sở chúng tôi đã từng bang giao lâu dài và thân thiện với chính quyền Anh quốc tại Ấn độ. Đó cũng là mối dây liên hệ duy nhất giữa chúng tôi và thế giới Tây phương. Thế nhưng từ khi quyền hành được chuyển giao cho chính quyền Ấn, thì mọi bang giao chính trị giữa chúng tôi và Ấn độ cũng tan biến nhanh chóng như tuyết gặp nắng. Vì thế tôi phải quyết định nối lại sự bang giao đó. Tôi không thể chấp nhận một xứ Tây tạng hoàn toàn bị cô lập trên phương diện chính trị. Tôi rời Lhassa vào cuối tháng 11 năm 1956, và vui mừng nghĩ đến sẽ được tự do đi lại không còn lo sợ người Trung quốc.
Ngài Mahatma Gandhi
Buổi sáng đầu tiên khi đến New Delhi một đám đông người tu tập đón rước tôi, ngay sau đó tôi đến viếng Raijghat là nơi hỏa táng Mahatma Gandhi. Trong khi đang tụng niệm trên triền dốc thoai thoải đưa xuống bờ sông Yamuna thì bỗng hiện lên trong lòng tôi một niềm tiếc nuối thật sâu xa không được gặp Gandhi lúc ngài còn sống, thế nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy hân hoan khi nghĩ đến cuộc đời của ngài là cả một tấm gương tuyệt vời cho chúng ta noi theo. Tôi từng xem ngài - và vẫn còn xem ngài - như một vị lãnh đạo Quốc gia lão thành biết đặt lòng vị tha lên trên quyền lợi cá nhân. Giống như ngài, tôi tin một cách vững chắc rằng bất-bạo-động là khí giới chính trị hữu hiệu nhất.
Hội kiến với nhà thông thái Hehru
Trong lần hội kiến đầu tiên với nhà thông thái Nehru, tôi giải thích thật chi tiết cho ông ta hiểu là người Trung quốc đã xâm lăng nước Tây tạng an bình của chúng tôi như thế nào và tôi đã phải cố gắng như thế nào để tìm một sự thỏa thuận với họ khi mà tôi hiểu rằng không có một quốc gia nào sẵn sàng ủng hộ chúng tôi đòi lại quyền độc lập cho xứ sở của chúng tôi. Lúc đầu ông ta cố gắng nghe tôi nói một cách rất lễ độ, thế nhưng sau đó lại từ từ chuyển sang thái độ lơ là. Sau cùng thì ông ta nói với tôi là ông ta hoàn toàn hiểu tôi thế nhưng lại nói thêm : "Tuy nhiên ông cũng phải hiểu rằng nước Ấn không thể giúp ông được". Tuy thế tôi vẫn cứ đề cập với ông ta ý định của tôi xin tị nạn tại Ấn. Về điểm này Nehru cũng thoái thác : "Ông phải trở về xứ sở của ông và tìm cách thỏa thuận với người Trung quốc". Tôi phản kháng lại là tôi đã cố gắng hết mức thế nhưng người Trung quốc đã làm cho tôi thất vọng.
Trước khi rời Delhi tôi hội kiến lần cuối cùng với Nerhru. Kết quả thật minh bạch : nước Ấn không thể giúp gì cho Tây tạng. Nehru còn khuyên tôi nên nghe theo lời Chu Ân Lai và khi trở về Lhassa thì nên về thẳng không được ghé Kalimpong, một thành phố ở Bắc Ấn, theo lời mời của những người Tây tạng tị nạn tại đây. Thế nhưng sau khi tôi nài nỉ ông ta về điều khoản này thì bất ngờ ông ta lại thay đổi hẳn ý kiến và tuyên bố rằng : "Dù sao thì nước Ấn cũng là một nước tự do. Bất cứ gì ông dự đinh thực hiện không trái với luật pháp Ấn độ".
Hai người em của tôi liên lạc với các chính trị gia Ấn độ có cảm tình với chúng tôi và cùng với vị cựu Thủ tướng chính phủ của tôi trước đây cả ba đều cố gắng thuyết phục tôi nên ở lại luôn tại Ấn. Cả ba đều thỉnh cầu Kashag (hội đồng bộ trường) khuyên tôi không nên trở về nước. Tôi nhất định không nghe ; tôi nghe theo lời khuyên của Nehru và căn cứ vào lời hứa hẹn của Chu Ân Lai để cố gắng thêm một lần nữa hợp tác với người Trung quốc xem sao. Thế nhưng trên đường về Lhassa lòng tôi vẫn nặng trĩu lo buồn.
Lhassa trờ thành một thùng thuốc súng
Tình trạng khủng hoảng ngày càng lộ liễu hơn và sau cùng đã bộc phát vào những tháng sau cùng của năm 1958, lúc đó Liên quân chiến đấu cho tự do đang bao vây Tsethang, một đồn quân quan trọng của Quân đội Nhân dân Giải phóng Trung quốc. Dân số Lhassa tăng lên gấp đôi vì người dân chạy nạn từ khắp nơi đổ về, tôi cảm thấy nếu mà họ tham gia vào việc đánh nhau thì nhất định sẽ không còn một hy vọng nào tái lập được hòa bình. Thùng thuốc súng có nguy cơ sẽ nổ tung bất cứ lúc nào, thế nhưng trên thực tế lại không có gì xảy ra. Tôi cố tập trung vào việc tu học suốt những tháng dài băng giá của mùa đông.
Tiến sĩ Phật học
Đầu năm 1959, tôi rời Norbulingka (cung mùa hè ở Lhassa) để đến ngôi chùa Jokhang tham dự lễ Monlam và đấy cũng là dịp tôi phải dự thi lần cuối cùng để lấy bằng tiến sĩ. Khi đến nơi thì đã có khoảng hai mươi lăm đến ba mươi ngàn nhà sư đã tụ họp từ trước để đón rước tôi, họ bị tràn ngập bởi đám người thế tục thật đông đảo kéo về từ những nơi xa xôi và hẻo lánh trên toàn thể đất nước Tây tạng. Suốt ngay hôm đó trước sự chứng kiến của một cử tọa gồm nhiều ngàn người, tôi phải tranh luận với các học viên cùng khóa về các chủ đề thuộc Lôgic học, Khoa học luận (Epistemology), Madhyamaka (Trung Quán Tông) và Prajnaparamita (Bát-nhã Ba-la-mật-đa : tức trình bày về giáo lý và kinh sách Đại thừa). Sau đó các học giả Phật học hạch hỏi tôi về năm chuyên ngành chính yếu. Thật là một ngày nhọc mệt, thế nhưng ban giám khảo đều nhất trí chấm đậu và tuyên bố tôi xứng đáng nhận chức Geshe, tức tiến sĩ Phật học.
Một nghìn năm văn hiến biểu dương sự vinh quang lần cuối cùng
Ngày 5 tháng 3 tôi rời chùa Jokhang để trở lại cung mùa hè trong cảnh nhộn nhịp. Các người cận vệ ăn mặc đồng phục sáng chói bao quanh chiếc kiệu của tôi, theo sau là hội đồng bộ trưởng và giới quý phái ở Lhassa, tất cả ăn mặc thật lộng lẫy. Tiếp theo sau là các vị trụ trì và các vị lạt-ma tiếng tăm nhất trong nước, sau hết là hàng nghìn và hàng nghìn người dân Tây tạng. Đấy là nền văn hiến của hơn một nghìn năm không gián đoạn đang biểu dương lần cuối cùng sự vinh quang của mình trên một đoạn đường sáu cây số chia cách hai tòa kiến trúc.
Đi xem một tuồng hát
Trước chuyến du hành đến chùa Jokhang, người Trung quốc thúc hối tôi phải dự kiến một buổi trình diễn kịch nghệ, thế nhưng họ không hé môi thảo luận trước với chúng tôi nghi thức sẽ được tổ chức như thế nào, tuy nhiên tôi vẫn chấp nhận trên nguyên tắc sẽ tham dự vào ngày 10 tháng ba. Sau khi trở về Lhassa, chúng tôi được biết là buổi trình diễn sẽ được tổ chức bên trong trại quân của người Trung quốc đóng cách cung mùa hè chưa đầy ba cây số . Chỉ cần nêu lên ý nghĩ một vị Đạt-Lai Lạt-Ma đích thân đi đến một nơi như thế dù với mục đích nào đi nữa cũng là một điều không thể hình dung được (người tu hành không xem hát xướng). Bất cứ ai cũng đều nhận thấy lời mời ấy chứa đựng đầy những điều đáng nghi ngờ, nhất là tôi lại nghĩ thêm đấy là một sự kiện mới lạ chưa từng xảy ra, có nghĩa là tôi phải bước vào bên trong trại quân của người Trung quốc không một người cận vệ đi theo. Đúng ngày hôm đó, vào lúc tinh sương tôi tản bộ như thường lệ trong khu vườn của cung Norbulingka, vẻ đẹp của một buổi sáng mùa xuân làm cho tôi quên khuấy đi những nỗi lo lắng trong lòng. Bỗng nhiên những tiếng hò hét vang lên từ phía bên kia bức tường : dân chúng Lhassa hét to lên cho tôi nghe thấy là họ kéo nhau đến đây để cứu tôi. Đám người ngày càng đông thêm, người ta bảo với tôi là phải đến ba mươi ngàn người. Khi các thành viên chính phủ tràn vào Lâu đài, tôi nghe thấy họ nói với nhau : "Người Trung quốc ra khỏi Tây tạng ! Nước Tây tạng của người Tây tạng !". Tôi bảo hội đồng bộ trưởng hãy thông báo với vị đại tướng Trung quốc là tôi không thể tham dự buổi trình diễn được nữa. Tôi có cảm giác đang đứng giữa hai ngọn núi lửa sẵn sàng nổ tung bất cứ lúc nào. Một bên là dân tộc tôi cương quyết, nhất trí và dứt khoát phản đối chế độ Trung quốc, một bên là quân đội của một lực lượng chiếm đóng vô cùng hùng mạnh và hung hãn. Trong trường hợp chạm trán giữa hai bên : hàng ngàn người dân sẽ bị sát hại một cách tàn bạo.
Cuộc nổi loạn tại Lhassa
Những ngày sau đó tình trạng trở nên hoang mang cùng cực. Vị đại tướng Tan Kuan-Sen cho biết đấy là một sự "phản bội" và lên án chính phủ Tây tạng đã tổ chức các cuộc khuấy động chống lại chính quyền Trung quốc. Người ta đồn là đang có một cuộc giàn quân nhằm phá tan cung Norbulingka. Khí thế của đám đông có vẻ như cuồng loạn. Tôi phải lưu lại nơi này hay nên bỏ trốn ? Tôi tham vấn vị tiên tri, lại thêm một lần nữa vị này lập lại câu trả lời trước đây : tôi phải ở lại để cố gắng duy trì sự đàm thoại cởi mở với người Trung quốc. Thế nhưng đây là lần đầu tiên tôi do dự, tôi muốn tìm trong câu trả lời của vị tiên tri một quyết định nào khác hơn. Và rồi đến ngày 16 tôi nhận được lá thư thứ ba và cũng là lá thư cuối cùng của vị đại tướng Tan Kuan-Sen. Đấy là bức tối hậu thư cho biết quân đội Trung quốc đang chuẩn bị tấn công vào đám đông và oanh tạc Norbulingka.
Cuộc sống lưu vong
Hừng đông ngày 17 tháng ba năm 1959, phút cuối cùng đã gần kề. Tiếng đồn cho biết các đạo quân tăng cường không vận từ Trung quốc đã đến nơi.
Về phía người Tây tạng thì một đám đông đang phẫn nộ - mang gậy, dao, kiếm và cả vài khẩu súng - họ đang bao quanh cung mùa hè với hy vọng giải cứu "người gia hộ cho họ", chẳng qua vì sinh mạng của vị Đạt-Lai Lạt-Ma là những gì quí giá nhất đối với họ. Họ quyết tâm lưu lại và sẽ chết ở đấy.
Tình thế trở nên hoàn toàn tuyệt vọng. Tôi lại hỏi vị tiên tri thêm một lần nữa. Lần này thì tôi vô cùng ngạc nhiên vì vị này thét lên :" Đi ngay ! Đi ngay tối hôm nay !". Vị tiên tri đang trong tình trạng nhập hồn ghi lên giấy thật chi tiết cách thức (hóa trang) thoát ra khỏi Norbulingka và cả lộ trình vượt biên. Vào đúng lúc đó một biến cố xảy ra hình như có ý nhấn mạnh thêm lời sấm truyền : hai quả đại pháo rơi đúng vào cửa bắc của khu vườn Bảo châu. Tôi và các bộ trưởng tham vấn các vị lãnh đạo đại diện cho dân thì tất cả đều nhất loạt sẽ ra sức giúp đỡ chúng tôi và bảo toàn bí mật.
Khi trời vừa sụp tối, tôi thân hành đến nơi chính điện thờ vị Mahakala, tức vị thần linh hộ mệnh của tôi. Tôi dâng lên một tấm kala (khăn quàng bằng lụa trắng) và lưu lại một lúc trước bàn thờ để nguyện cầu. Cửa chính của cung có một bờ thềm. Tôi đi một vòng và dừng lại ở mép thềm để hình dung cuộc hành trình của tôi khi đến nước Ấn và tôi lại quay trở lại phía cửa để tượng trưng cho sự trở về quê hương Tây tạng của tôi. Sau đó tôi ra đi giữa một đêm giá buốt, mặc một chiếc quần và khoác lên người một áo tơi dài, cặp kính bỏ vào túi, trên vai đeo khẩu súng, hai người cận vệ đi theo, và sau đó lại có thêm một người hầu cận nhập bọn. Như thế đó tôi rời vòng thành của lâu đài như một chiến sĩ Tây tạng thật bình dị. Hướng về nước Ấn, tôi bước vào con đường lưu vong.
Comments[ 0 ]
Post a Comment